Nguồn gốc
Kỹ thuật in nổi, in tem bảo hành về nguyên tắc rất đơn giản, là một trong những in tem bảo hành phương pháp lâu đời nhất của loài người để giữ lại những ý tưởng về hình ảnh. Trong các kỹ thuật in nổi khắc gỗ là phương pháp in lâu đời nhất. Người Babylon và in tem bảo hành người Ai Cập đã từng in con dấu làm bằng gỗ khắc nổi trên đất sét mềm, tại Trung Quốc ngay từ thế kỷ 4 người ta đã biết dùng mực quét lên những tảng đá có khắc chữ và chà giấy lên để in ra.
Trong thời nhà Đường (618 – 907) tranh vẽ và chữ kèm theo (trên cùng một bản in) đã được in ra bằng các bản in gỗ, sách in bằng bản khắc gỗ cũng đã được biết đến từ thế kỷ 9, trong khi loại này ở châu Âu mãi đến thế kỷ 15 mới in tem bảo hành xuất hiện. Quyển sách lâu đời nhất in bằng bản khắc gỗ được biết đến bao gồm 6 trang với các bản khắc gỗ nhỏ cho nửa trang một là quyển Kinh Kim Cang (tiếng Anh: Diamond Sutra) ra đời vào năm 868.
Khắc gỗ ở châu Âu
Tại châu Âu việc sử dụng con dấu bằng gỗ đã được chứng minh là bắt đầu từ thế kỷ 12: Ở Ý vải được in bằng cách này. Người ta đoán rằng kỹ thuật này lan truyền vào Đức trong thế kỷ thứ 14 qua các người vẽ hình cho con bài.
Các tác phẩm nghệ thuật khắc gỗ đầu tiên ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1400 đến năm 1500 trong các tu viện ở Bayern và vùng núi Alpes là các bản in một mặt từng trang rời. Dưới dạng như các tờ truyền đơn hay sách mỏng, các bản in khắc gỗ được dùng để truyền bá các ý tưởng về nghệ thuật, thế giới quan và tôn giáo, đặc biệt là trong thời kỳ của Phong trào cải cách (Reformation).
Bên cạnh các bản in khắc gỗ một mặt, từ năm 1430 đã xuất hiện loại sách in bằng bản khắc gỗ mà mỗi trang được in bằng một bản in khắc gỗ bao gồm cả chữ viết lẫn hình ảnh. Việc sử dụng các bản khắc gỗ để minh họa trong sách càng được phổ biến từ khi Johannes Gutenberg phát triển kỹ thuật in sách. Quyển "Sử biên niên thế giới Schedel" do Anton Koberger ở Nürnberg (Đức) in vào năm 1493 bao gồm gần 2.000 bản khắc gỗ. Để in quyển sách này Koberger đã phải cần đến 100 người thợ và 24 máy ép in nổi.
Khắc gỗ trong thời kỳ Phục hưng
Khắc gỗ đạt đến đỉnh cao đầu tiên trong thời kỳ Phục hưng khi các nhà nghệ thuật như Albrecht Dürer và Hans Baldung tạo ra các tác phẩm có giá trị cao dưới hình thức nghệ thuật này. Đặc biệt Dürer đã giải phóng khắc gỗ ra khỏi tính năng chỉ để minh họa cho sách và mang lại một định nghĩa mới cho khắc gỗ như là phương tiện truyền đạt một tác phẩm nghệ thuật. Về hình thức Dürer mang nghệ thuật khắc gỗ đến gần khắc đồng bằng cách tạo ra được nhiều tông màu giữa đen và trắng.
Trong thời kỳ này cũng đã có những thử nghiệm đầu tiên in nhiều bản khắc gỗ có màu khác nhau trên cùng một bản in vì cho đến lúc đó các bản in rời từng tờ đều được tô màu bằng tay sau khi in ra. Trong một bản in màu thật sự mỗi một màu đều có bản khắc gỗ riêng, khó khăn về kỹ thuật của phương pháp này là ở chỗ không điều khiển chính xác được quy trình in vì giấy co giãn khi thấm ướt và lại được hong khô lại. Các bản in khắc gỗ màu đầu tiên được xác định là vào năm 1486. Lucas Cranach der Ältere (Lucas Cranach Già) và Albrecht Altdorfer tiếp tục thử nghiệm sau đó. Altdorfer đã thành công trong thời gian 1519/1520 với một bản in màu dùng 6 bản khắc gỗ. Sau các tác phẩm của Altdorfer thử nghiệm về in bản khắc gỗ màu tạm thời không còn được tiếp tục ở Đức nữa, có thể là do ảnh hưởng của việc truyền bá rộng rãi các tác phẩm trắng đen của Albrecht Dürer.
Sự phát triển của kỹ thuật khắc gỗ
Cùng với sự phát triển của khắc kim loại, khắc gỗ mất đi tầm quan trọng như là một phương tiện để diễn đạt trong nghệ thuật. So với khắc gỗ, khắc kim loại cho phép nhà nghệ thuật tạo thành nhiều tông màu và nhiều chi tiết hơn. Ở khắc gỗ, tông màu sáng và tối chỉ hình thành nhờ vào chiều rộng và khoảng cách của các đường khắc. Ngược lại, ở kỹ thuật khắc kim loại độ sâu của đường khắc quyết định độ đậm nhạt của màu đen. Vì thế khắc kim loại trở thành một phương pháp được nhiều nhà nghệ thuật ưa chuộng. Xu hướng này chỉ được thay đổi khi nhà nghệ thuật tạo hình người Anh Thomas Bewick vào cuối thế kỷ 18 đảo lộn tất cả các quy luật cắt hình và vì vậy cách mạng hóa kỹ thuật khắc gỗ.
Thomas Bewick là người đầu tiên không khắc các hình ảnh của mình trên loại gỗ được cắt theo chiều dài của sợi nữa mà khắc trên gỗ cứng của cây hoàng dương được cắt ngang chiều sợi và đồng thời dùng những dụng cụ khác để có thể tạo nhiều tông màu hơn, mang lại cho khắc gỗ giá trị ngang như khắc kim loại. Kỹ thuật của ông cũng còn được gọi là chạm gỗ (xylography). Bản in gỗ cắt ngang chiều của sợi có độ cứng gần như thép và vì thế còn hơn cả bản in khắc kim loại. Cùng với phương pháp này khắc gỗ lại trở thành phương tiện được ưa thích, nhất là trong các kỹ thuật in lại hình ảnh. Honoré Daumier và Gustave Doré là những nhà nghệ thuật sử dụng kỹ thuật này nhiều nhất như là một phương tiện để diễn đạt nghệ thuật.